Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật Tố tụng hình sự để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới
1. Khái quát chung về nguyên tắc suy đoán vô tội
Suy
đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng
rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán
vô tội được nhiều Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được
đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ
quyền con người. Nguyên tắc này đã được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân
quyền năm 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của
Liên hiệp quốc. Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực
hiện thông qua sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên
trong những năm qua, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn được sự quan tâm,
không chỉ được đề cập rất nhiều trong những hội nghị khoa học và các hội
nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động
xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn.
1.1. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội
Thứ nhất,
không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được
chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
tòa. Tức là,
một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người phạm
tội” dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định
là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ
“người phạm tội” chỉ một thực tế khách quan là một người đã thực hiện
tội phạm chứ không phải tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan
áp dụng pháp luật. Do vậy, thuật ngữ người “bị coi là có tội” khác với
thuật ngữ “người phạm tội”.
Thứ hai,
trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội.
Như vậy, đồng nghĩa với việc tại phiên toà bị cáo có quyền im lặng tức
là không có nghĩa vụ phải trả lời các câu hỏi của hội đồng xét xử. Để
xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng
trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện
hành vi bị Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 coi là tội phạm.
Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể
kết tội người đó.
Thứ ba,
bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của tòa phải dựa trên
các chứng cứ khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong
việc thực hiện tội phạm.
Buộc tội phải dựa trên chứng cứ. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản
án kết tội của tòa phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về
lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. Nếu cơ quan
điều tra còn “mơ hồ” về chứng cứ thì không ra kết luận điều tra, nếu
Viện kiểm sát còn băn khoăn việc này nọ thì không ra cáo trạng, nếu thấy
chưa đủ chứng cứ thì tòa không kết tội.
Thứ tư,
mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo
trình tự, thủ tục do luật định và khi chưa có sự thống nhất trong việc
giải thích, áp dụng các quy phạm pháp luật đều phải được giải quyết theo
hướng có lợi cho họ.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những
chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị
bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu
không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người
bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho
họ.
Ở
Việt Nam, trong quá trình cải cách tư pháp, việc ghi nhận và áp dụng
nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ tạo ra nhiều lợi thế cho một quy trình tố
tụng tiến bộ, phù hợp với cải cách tư pháp. Bởi lẽ nguyên tắc này có mối
quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo và nguyên tắc tranh tụng.
1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
Thứ nhất,
nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh: Chứng
minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là
những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố
tâm lý của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể
phải trả giá bằng sinh mệnh của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh
theo hướng suy đoán có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự
chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình
phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người
có tội là hết sức nguy hiểm. Nó đồng nhất người bị tình nghi, bị can,
bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều
trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó,
có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói
là đã bù đắp được toàn bộ.
Thứ hai, nguyên
tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị
can, bị cáo. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã
hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người
bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền. Suy
đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự
giữa một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh
được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người
bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị
buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân
loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với
quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người luôn vô tội khi
nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng
minh được họ có tội.
Có
thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên
tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng
minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại.
Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho
những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ không
thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can.
Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật Tố tụng hình
sự, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự.
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013
Như
đã phân tích ở phần trên, nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc
về bảo đảm quyền con người, hiểu một cách đơn giản nhất nội dung của
nguyên tắc suy đoán vô tội là một người sẽ không bị coi là có tội nếu
không bị kết án bởi một Tòa án hợp pháp. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền
năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự
và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966 đều có quy định: “Bất kỳ người
bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi
của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng
phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào
chữa của người đó”.
Ở
nước ta, nguyên tắc suy đoán vô tội mặc dù chưa được công nhận một cách
chính thức, nhưng tư tưởng của nguyên tắc này đã được đề cập trong một
số văn bản quy phạm pháp luật:
+
Thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 đã hướng dẫn: “Không nên có định
kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người
có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để toà án có thái
độ hoàn toàn khách quan”.
+
Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Toà án Nhân dân tối cáo đã đưa
ra hướng dẫn có tính nguyên tắc trong hoạt động xét xử của toà án như
sau: “Việc xét hỏi tại phiên toà nhằm trực tiếp và công khai thẩm tra
lại các chứng cứ của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử phải xét hỏi một cách
đầy đủ, khách quan, cần tránh tư tưởng quá tin vào hồ sơ mà coi nhẹ tác
dụng của việc xét hỏi tại phiên toà, hoặc cho rằng xét hỏi chỉ nhằm
buộc tội bị can phải nhận những lời mà họ đã khai ở cơ quan điều tra”.
+
Trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 nội dung của nguyên tắc suy
đoán vô tội quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên gọi của
chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”: “Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử
trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục
hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Điều
này có nghĩa tại thời điểm đó chúng ta đã đồng nhất khái niệm quyền con
người nằm trong quyền công dân do Nhà nước quy định. Chúng ta chưa thừa
nhận quyền con người với những quyền cơ bản như quyền được sống, được
ăn, mặc, ở, quyền được coi là không có tội khi chưa bị Tòa án xét xử
tuyên bằng một bản án kết tội…., là những quyền cơ bản của con người
phải được tôn trọng, bảo vệ mà không phụ thuộc vào bất cứ quy định của
một thể chế chính trị hay một nhà nước nào.
+
Quy định trên đã được thể chế hóa tại Điều 9, Điều 10 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003. Điều 9 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật" và Điều 10: "Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và
chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
Có
thể thấy, Điều 9, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng không
quy định tên gọi “nguyên tắc suy đoán vô tội” và tách thành hai điều
luật. Nếu như phân tích kỹ và có sự so sánh chúng ta thấy dường như có
một sự đối lập giữa quy định của Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003. Trong khi Điều 9 thể hiện tương đối gần với nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội, tức là nguyên tắc trọng chứng cứ, thì
Điều 10 lại thể hiện với tên gọi của nó là “xác định sự thật khách quan
của vụ án”, tức là có thể chứng cứ yếu nhưng nếu đúng là sự thật khách
quan thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bổ sung chứng
cứ đến cùng để kết tội. Có thể đây cũng chính là lý do mà các nội dung
trên không được quy định trong cùng một điều luật và nó cũng thể hiện
chính sách hình sự của Nhà nước ta có sự đặc thù khác biệt so với “tố
tụng tranh tụng” của các nước khác, chúng ta tôn trọng sự thật khách
quan hơn là công nhận những chứng cứ có thể làm cho sự thật khách quan
không thể chứng minh được.
+ Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ nguyên tắc suy đoán vô tội
Thời
gian gần đây, một điểm được dư luận xã hội rất quan tâm là việc liên
quan tới một số vụ án oan sai, như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang.
Với việc ban hành các văn bản luật tới đây, tình trạng trên sẽ được
khắc phục thế nào? Đây là một trong những điểm rất quan trọng vừa được
sửa đổi, bổ sung và quy định rất sâu sắc trong Hiến pháp năm 2013. Hiến
pháp lần này đã làm rõ hơn nguyên tắc suy đoán vô tội. Nghĩa là bây giờ
có thêm một điều kiện rất quan trọng đó là việc buộc tội phải được chứng
minh thì mới có bản án.
Hiến
pháp năm 2013 đã công nhận quyền con người là một quyền độc lập tách
khỏi quyền công dân. Những quy định của Chương V Hiến pháp năm 2001 đã
được sửa đổi bổ sung cho phù hợp và được quy định tại Chương II Hiến
pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 với tên gọi của chương là: Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nội dung của nguyên tắc
suy đoán vô tội được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như sau:
“1.
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật.
2.
Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật
định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật
thì việc tuyên án phải được công khai.
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
4.
Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
5. Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất,
tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại
cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
So
với quy định của Điều 72 Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 thì Điều 31
Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 đã quy định thêm các nội dung mới
tại các Khoản 2, 3, 4. Tại Khoản 5 cũng bổ sung thêm việc người bị khởi
tố điều tra, thi hành án trái pháp luật cũng có quyền được bồi thường;
nội dung bồi thường được mở rộng thêm yêu cầu bồi thường thiệt hại về
tinh thần. Trên cơ sở những quy định mới tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013
như trên, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thừa nhận rõ
ràng và cụ thể hơn trong Hiến pháp năm 2013:
-
Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp cũ quy định “Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình
phạt. Nhưng Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã nhấn mạnh và chỉ rõ, một
người bị kết tội phải có 02 điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình
tự luật định và hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
-
Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm
cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải
chứng minh điều tra hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật
định và phải nhanh chóng đưa ra Tòa án xét xử đúng thời hạn, việc tuyên
án phải được công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. Việc
ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội nhằm khắc phục sự định kiến của các
cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đối với người bị
tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo đồng thời còn tạo
điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.
-
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần
vì một tội phạm. Đây không chỉ đơn thuần là việc đổi mới về kỹ thuật lập
pháp đã tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, thể hiện việc Đảng và Nhà nước
ta tôn trọng và thực hiện Công ước quốc tế mà còn thể hiện sự quan tâm,
nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo quyền con người.
-
Nguyên tắc suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa. Bởi vì nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử
thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ còn là hình
thức. Người bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Họ được nghiên cứu hồ
sơ vụ án trên cơ sở am hiểu các quy định của pháp luật và được bị cáo
hoặc gia đình bị cáo ủy quyền để bảo vệ cho các quyền và lợi ích chính
đáng của bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra các luận cứ
chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay
không đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh cũng
như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm
sát buộc tội. Đảm bảo quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền
con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định rõ quyền tự bào
chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác bào chữa của những người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
-
Ngoài ra, Điều 31 Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung chính xác các giai đoạn
tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự về người
bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc tôn trọng quyền con người của
những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh
dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
theo pháp luật.
3.
Thể chế hóa những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 cho phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới
Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định rất tiến bộ khi đảm
bảo cho quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ cũng
như nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các
quyền lợi ấy. Thế nhưng, xét về tổng thể, nguyên tắc suy đoán vô tội
nhìn chung vẫn chưa được đảm bảo một cách toàn diện trong những quy định
pháp luật cũng như thực tiễn ứng dụng. Hiện nay, chúng ta đang trong
quá trình nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với luật pháp
quốc tế. Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách
tư pháp và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là việc làm cần thiết. Tuy còn có
những quan điểm khác nhau, nhưng chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến
cho rằng: Cần bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng
hình sự nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt
động tố tụng hình sự.
Vì
thế, trong phạm vi bài viết này, tác giả thấy rằng, không nên quy định
gộp Điều 9, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vào một điều luật
và lấy tên là “nguyên tắc suy đoán vô tội” như một số đề xuất. Bởi vì
pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của số đông người dân. Luật tố tụng hình sự của nước ta thiên về tố
tụng thẩm vấn và hướng đến tăng cường hoạt động tranh tụng, chứ không
nhằm chuyển hẳn sang tố tụng tranh tụng. Tố tụng tranh tụng là hình thức
tố tụng trọng chứng cứ hơn sự thật khách quan. Pháp luật của Nhà nước
ta, bên cạnh việc công nhận quyền được im lặng, quyền bào chữa, quyền
được chối tội mà không bị tăng nặng hình phạt, quyền được coi là không
có tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng không tìm đủ chứng cứ kết tội,
quyền được áp dụng nguyên tắc có lợi…, thì chúng ta còn có quy định về
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bằng mọi cách
phải chứng minh được sự thật khách quan của vụ án.
Vì
vậy, chúng ta nên sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 theo hướng
vẫn quy định hai nội dung trên ở hai điều luật khác nhau sẽ đảm bảo
nguyên tắc suy đoán vô tội hướng đến chân lý và sự thật khách quan hơn
là nguyên tắc suy đoán vô tội đơn thuần trọng chứng cứ. Đồng thời, nên
bổ sung một số quy định tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cho
phù hợp với quy định tại Điều 31 Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 theo
hướng như sau:
“Điều 9: Suy đoán vô tội
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
-
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh sự vô tội của mình.
-
Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì
phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.
- Bản án kết tội của Tòa án không dựa trên những căn cứ giả định”.
Trong
công tác tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp sửa đổi 2013, các cơ quan
ban, ngành cần tổ chức các hội nghị tập huấn để tuyên truyền đến các
cán bộ trong ngành về nội dung, vai trò của nguyên tắc suy đoán vô tội
và quy định mới của Hiến pháp có liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô
tội. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức của các cán bộ để công tác thực
tiễn đạt hiệu quả cao.
Minh Thảo
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
2. Hiến pháp năm 2013
3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
4. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 và việc triển khai thi hành trong ngành Kiểm sát Hải Phòng, Nguyễn Thị Liên – Viện trưởng Viện Kiểm sát huyện Cát Hải, đăng trên trang web:
5. Ths. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, trang web: toanan.gov.vn
6. TS. Phạm Mạnh Hùng – Hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Hình sự Việt Nam, trang web: vksdanang.gov.vn
7. Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định của nguyên tắc này trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013,
Trương Thị Thanh Nhàn – Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, đăng
trên trang web:
http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/index.php/home/detail/1055/Nguyen-tac
%E2%80%9CSuy-doan-vo-toi%E2%80%9D-va-cac-quy-dinh-cua-nguyen-tac-nay-trong-Hien-phap-1992-sua-doi-nam
8. Xem:
9. Nguyên
tắc suy đoán vô tội và việc quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp và
Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phạm Duy Trường – Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kiến An, đăng trên trang web:
( Ngày 22 tháng 04 năm 2014 ) |
http://www.moj.gov.vn/thihanhhienphap/News/Lists/giaidapthacmac/View_Detail.aspx?ItemID=5259
Video:
Video:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét